TÌM HIỂU : Ý NGHĨA BỘ BÀI TÂY 52 lá + 2 lá
——————————————————————————————
SỰ THỊNH SUY CỦA ĐẠO PHẬT
BỆNH BÉO PHÌ VÀ SỰ THỊNH SUY CỦA ĐẠO PHẬT
—————————————
Tâm linh và Mê tín
“Khát vọng muốn tin các hiện tượng dị thường của con người lớn hơn mọi chứng cớ phản bác” (Định luật Blackmore thứ nhất).
Bài “Đất thiêng một giải nghiệm” trên Văn nghệ số 32, ngày 11-8-2007, khá điển hình cho một trào lưu mới tại nước ta hiện nay. Đó là sự lên ngôi của “khoa học tâm linh” hay các hoạt động mang tính tâm linh khác, tuy khái niệm tâm linh chưa bao giờ được làm rõ hay đạt sự đồng thuận. Đây là vấn đề quan trọng mà nếu không giải quyết, có thể gây nhiều hiểu lầm. Có ai ngờ thời thế lại đổi thay đến mức, người viết từng bị nhà thơ T.T.L. qui kết là hồng vệ binh và phản động chỉ vì không tin tâm linh có thật!
Tâm linh là gì?
Theo Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, 1995, tâm linh là “1. Khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xẩy ra với mình, theo quan niệm duy tâm. 2. (ít dùng) Tâm hồn, tinh thần”. Nếu đề nghị dịch thuật ngữ ra tiếng nước ngoài, có lẽ người biên soạn sẽ lúng túng.
Liên quan với tâm linh, tiếng Anh có hai thuật ngữ là spiritualism (duy linh luận) và spiritism (thông linh luận). Duy linh luận là niềm tin tôn giáo – triết học về sự tồn tại sau cái chết, còn thông linh luận giả định về một số hiện tượng liên quan với sự can thiệp của người chết. Do nhiều tương đồng, nên chúng thường được đánh đồng với nhau. Tâm linh luận giả định có thể liên lạc với người chết qua đối tượng trung gian là giới đồng cốt – những người được xem là có khả năng nói chuyện với người chết.
Cần lưu ý rằng, linh hồn bất tử là ước nguyện rất tự nhiên của con người, vì đó là cách duy nhất để chúng ta chống chọi với thời gian và chiến thắng nỗi sợ hãi trước cái chết. Trong mọi nền văn hoá, đều tồn tại ước nguyện đó dưới nhiều hình thức, nhất là khi người xưa chưa hiểu biết đầy đủ về bản chất sự sống. Ngày nay, khi Miller (1953) tạo được axít amin nhờ tia lửa điện phóng qua ống nghiệm mô phỏng khí quyển Trái đất xưa, và khi nhiều phòng thí nghiệm đã gần tạo được tế bào nhân tạo, khoa học đã phát hiện bản chất tự nhiên của sự sống và khẳng định linh hồn không có thật. Là chức năng của bộ não, nên khi ta chết, tư duy, nhận thức và tình cảm chấm dứt, giống như hình ảnh, âm thanh trong tivi mất ngay khi ta ngắt điện. Nói cách khác, về mặt khoa học, linh hồn là quan điểm sai lầm.
Như vậy cần phân biệt ranh giới giữa các hoạt động tín ngưỡng – tôn giáo với các hoạt động khoa học. Thờ cúng và cầu xin người đã khuất phù hộ tại gia đình, đền chùa hay các cơ sở tôn giáo là các hoạt động tín ngưỡng – tôn giáo cần được giữ gìn như một nét văn hoá đáng quí. Hoạt động này được pháp luật bảo vệ. Còn tổ chức nghiên cứu xem linh hồn có thật hay không lại là việc làm lạc hậu cả về thế giới quan và phương pháp luận. Về mặt thế giới quan, những hoạt động đó kéo lùi nhận thức của chúng ta ít nhất hai thế kỉ (Khi Wohler tổng hợp được urea năm 1828, quan niệm linh hồn đã bị bác bỏ về mặt sinh học). Về mặt phương pháp, các nghiên cứu về cầu hồn hay gọi vong tại nước ta mắc lỗi nghiêm trọng trong thiết kế, đánh giá và bàn luận kết quả. Kết quả là một trung tâm nghiên cứu với nhiều nhà khoa học có tiếng đã kết luận cô đồng Phương tại Thanh Hoá thực sự có khả năng gọi hồn người chết. Trong khi đó, với sự nghi ngờ đúng đắn (xin lưu ý, tín ngưỡng hay tôn giáo dựa trên niềm tin, còn khoa học dựa trên sự nghi ngờ) và “thiết kế thực nghiệm” đơn giản, một phóng viên báo Công an TPHCM đã phát hiện sự thật khi cô đồng nổi danh này mắc bẫy nói chuyện với “vong” không có thật.
Các hiện tượng dị thường:
Như đã trình bày, vì quan niệm linh hồn đã bị xem là lạc hậu, nên giới nghiên cứu nước ngoài tỏ ra ưa thích thuật ngữ psychic, cũng được hiểu là tâm linh (theo nghĩa thứ nhất trong Từ điển tiếng Việt). Nó bao gồm ba phạm trù: ngoại cảm, tức khả năng nhận biết phi ngũ quan (gồm thần giao cách cảm, thấu thị, tiên tri và hậu tri); tác động của tinh thần lên vật chất (chẳng hạn “nhìn cong thìa”); và các hiện tượng liên quan với người chết. Người có một hay nhiều khả năng như trên được gọi là nhà ngoại cảm hay tâm linh. Thời gian qua, do nhiều nguyên nhân, giới ngoại cảm nước ta xuất hiện như nấm sau mưa. Tự cho là có nhiều khả năng khác nhau, nhưng để đáp ứng nhu cầu tìm hài cốt liệt sĩ tăng rất cao sau hai cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc, nhiều nhà ngoại cảm tuyên bố có khả năng tìm mộ, chủ yếu do “nói chuyện với người chết”.
Cần nhấn mạnh rằng, sau hơn một thế kỉ nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra tám lí do nghi ngờ ngoại cảm và tâm linh như sau:
1) Sự tiến bộ là tiêu chí bắt buộc của một khoa học tốt.Ngành cận tâm lý (nghiên cứu ngoại cảm và tâm linh) không đạt được một tiến bộ đáng kể nào, kể từ khi Hội nghiên cứu tâm linh đầu tiên trên thế giới được thành lập tại Anh năm 1882.
2) Ngoại cảm được định nghĩa khác thường, không theo nghĩa nó là cái gì, mà theo nghĩa không là cái gì, nên rất khó giới hạn phạm vi nghiên cứu.
3) Bằng chứng của tâm linh thường không đáng tin, vì chỉ dựa trên lời kể của những người thiếu kiến thức chuyên môn.
4) Nghiên cứu về tâm linh thường mắc lỗi giản lược trong nhận thức và phương pháp.
5) Tâm linh không liên quan với bất cứ lý thuyết khoa học đã được khẳng định nào.
6) Nghiên cứu tâm linh có tính lặp lại kém.
7) Ngụy tạo và lừa gạt gắn bó chặt chẽ với tâm linh trong suốt tiến trình lịch sử.
8) Nhiều hiện tượng tâm linh có thể giải thích theo cách thông thường, mà hiện tượng ma nhập là điển hình (đó là hiện tượng đa nhân cách trong lĩnh vực tâm thần học).
Xin nhấn mạnh hai lí do thứ 3 và 4. Cho đến nay, chưa một ai đưa ra được một bằng chứng thuyết phục về tâm linh. Thế nào là một bằng chứng đáng tin cậy? Đó là bằng chứng thu được trong một thí nghiệm được thiết kế đặc biệt nhằm loại bỏ các kênh cảm giác (vì ngoại cảm là khả năng nhận biết phi ngũ quan), sự lừa gạt hay nguỵ tạo. Nghiên cứu tại nước ta không thoả mãn các tiêu chí này, vì thế các kết luận đều không đáng tin. Hiện quĩ James Randi (nhà ảo thuật chứng tỏ khả năng “nhìn cong thìa” của Iuri Geller chỉ là ảo thuật) treo giải một triệu đô la Mĩ cho bất cứ ai thực hiện được khả năng ngoại cảm trong một thí nghiệm có kiểm soát. Các tổ chức nghiên cứu tại Pháp, Úc, Canada… cũng treo giải 200.000 euro mỗi nước. Và trên hết là giải thưởng 50 triệu đô la cho người chỉ ra vị trí của trùm khủng bố Bin Laden. Cần lưu ý, tất cả các nhà ngoại cảm từng thử nghiệm đều đã thất bại.
Ngược với sự nghi ngờ của giới chuyên môn, sự quan tâm của quần chúng đối với ngoại cảm và tâm linh không hề suy giảm vì bất cứ lí do nào. Đó là căn nguyên khiến nữ tiến sĩ tâm lí Susan Blackmore đưa ra định luật Blackmore thứ nhất. Đã từng xuất hồn và sau mấy chục năm nghiên cứu, bà nhận thấy “Khát vọng muốn tin các hiện tượng dị thường của con người lớn hơn mọi chứng cớ phản bác”. Nói cách khác, vì muốn tin nên chúng ta có xu hướng bác bỏ mù quáng mọi chứng cớ chống lại niềm tin đó!
Chính vì vậy, Uỷ ban điều tra khoa học các tuyên bố về hiện tượng dị thường CSICOP được thành lập tại Mĩ năm 1976 nhằm ngăn chặn “cơn triều dâng của nạn mê tín và sự thừa nhận không phê phán các hiện tượng dị thường” và “khám phá các tuyên bố (về dị thường) và xuất bản các báo cáo khoa học về tính hiện thực của chúng”. Nhiều nhà khoa học lừng danh tham gia sáng lập CSICOP, như nhà vật lý Kapitxa (Nobel vật lý), nhà vật lý và thần kinh học Crick (Nobel sinh lý và y học), nhà tâm lý Skinner (cha đẻ thuyết hành vi), nhà thiên văn Sagan (cha đẻ chương trình tìm kiếm các nền văn minh ngoài trái đất SETI), nhà sinh học tiến hoá Gould (cha đẻ thuyết Darwin hiện đại hoá), nhà ảo thuật Randi (khám phá nhiều màn ảo thuật đội lốt tâm linh), nhà sinh học Dawkins (bác bỏ quan niệm về nguyên lý sáng tạo tối cao của một số nhà khoa học hàng đầu)… Với đội ngũ nhân lực hùng hậu, với tạp chí Người yêu cầu nghi ngờ xuất bản hàng quí, với hàng loại khảo cứu chuẩn mực về mặt phương pháp, CSICOP là thách thức chưa thể vượt qua đối với giới ngoại cảm và tâm linh trên toàn thế giới. Các tổ chức tương tự cũng xuất hiện tại Nga, Ucraina, Pháp, Đức, Anh, Tây Ban Nha, Ý, Ấn Độ, Nam Phi, Brazil, Achentina, Hồng Kong, Đài Loan và nhiều quốc gia khác. Bạn đọc quan tâm tới các hoạt động của CSICOP có thể vào trang http://www.csicop.com/ để tìm hiểu thêm.
Tại sao giới bói toán hay đồng cốt dường như chính xác?
Nếu ngoại cảm và tâm linh không đáng tin cậy, tại sao một cô đồng giỏi có thể biết một số thông tin về người chết?
Nhiều người cho rằng đó là bằng chứng cho thấy linh hồn có thật và giới đồng cốt quả thật có khả năng nói chuyện với người chết. Tuy nhiên sau khám phá của Ray Hyman (cũng là sáng lập viên của CSICOP), sự thật về giới bói toán và đồng cốt đã được khám phá. Trong bài báo “Thuyết phục người lạ rằng bạn biết tất cả về họ như thế nào” trên Người yêu cầu nghi ngờ, tập 1, số 2, năm 1977, Hyman đã phát hiện kỹ thuật đọc nguội (cold reading). Đó là kỹ thuật lấy tin từ chính thân chủ bằng nhiều phương cách như nói lấp lửng nước đôi, đọc ngôn ngữ cơ thể… (thày bói hay cô đồng thường nói tràng giang đại hải, khi gặp thông tin khớp, ta thường nhướn mày, chớp mắt, rung cơ, thở nhanh… nên cô đồng nắm được. Giới chuyên môn gọi là hiệu ứng Hans thông minh, khi ngựa Hans tại Berlin đầu thế kỉ 20 “biết làm toán” do đọc ngôn ngữ cơ thể người đối diện). Chính vì vậy trong cuốn Sự thật đầy đủ về đọc nguội, Rowland viết: “Trong một buổi gọi hồn thành công, cô đồng có thể nói hầu hết thời gian, nhưng chính người hầu đồng mới là người cung cấp ngữ nghĩa và ý nghĩa của những ngôn từ đó“. Ở đây câu ngạn ngữ Tây Ban Nha tỏ ra thích hợp “Người nói nhiều đôi khi cũng đúng”!
Có thể kể thêm hai kỹ thuật đơn giản là đọc nóng (hot reading) và đọc ấm (warm reading). Đọc nóng là cách lấy tin trước khi bói hay gọi hồn. Ta cứ phải chầu chực mãi mới được bói hay hầu đồng là vì vậy. Còn đọc ấm là việc áp dụng các nguyên lý tâm lý thông thường cho thân nhân người đã khuất.. Chẳng hạn giới đồng cốt Mĩ thường nói người chết cảm thấy đau đầu hay đau tim. Thông báo này có xác suất đúng cao vì đột quị não và nhồi máu cơ tim là những nguyên nhân tử vong hàng đầu tại Mĩ. Với một cô đồng giỏi cả ba kỹ thuật, người nghe không tin mới là chuyện lạ!
Vậy có thể kiểm chứng độ xác thực của khả năng “ngoại cảm tìm mộ“ hay không? Cách giải quyết thực ra rất dễ dàng: hoặc xét nghiệm ADN trên hài cốt tìm được, hoặc thực nghiệm với các trường hợp thật giả lẫn lộn. Người viết bài này tin rằng, nếu tổ chức tốt các thử nghiệm có kiểm soát, không một nhà ngoại cảm nào dám chấp nhận thách thức. Vấn đề chỉ là chúng ta có muốn kiểm chứng hay không mà thôi.
Cần bài trừ nạn mê tín mới:
Có lẽ ít người phản đối việc tách biệt hành vi mê tín khỏi các hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy nhiên đâu là ranh giới giữa mê tín và tín ngưỡng lại là vấn đề rất khó đạt được sự đồng thuận. Đó là vấn đề lớn của toàn nhân loại chứ không riêng của nước ta. Chẳng hạn tại Anh, nhà khoa học đoạt giải Nobel Josephson từng bỏ vật lý để nghiên cứu các hiện tượng tâm linh. Trong một bức thư gửi tạp chí Nature danh tiếng, ông chê trách thái độ thờ ơ của cộng đồng khoa học đối với lĩnh vực tôn giáo và dị thường học. Theo ông, thực hành tôn giáo bắt nguồn từ các gien liên quan với tính thiện và có thể giúp các xã hội vận hành tốt hơn. Các nhà khoa học phản đối ông, cho rằng ngoài các yếu tố tích cực, hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo rất dễ gắn với các hành vi mê tín. Điều này không lạ, vì trong một số trường hợp, ranh giới giữa tín ngưỡng và mê tín cũng khá mơ hồ. Chẳng hạn thờ cúng người đã khuất là tín ngưỡng; vậy vay tiền bà chúa Kho là tín ngưỡng hay mê tín?
Theo quan điểm cá nhân, cần phân biệt hai kiểu mê tín: mê tín cũ và mê tín mới. Tin là có ma quỉ, linh hồn, thiên đường và địa ngục hay thực hành gọi vong, cầu hồn, lên đồng… là các hành vi mê tín kiểu cũ. Những hành vi này thì từ xa xưa cha ông ta cũng đã từng đả phá và nay chúng ta cần cương quyết và khôn khéo loại trừ. Sự vụ một cô đồng “nhập hồn lãnh tụ” cần xem là sự giả danh lãnh tụ, và việc lưu truyền băng đĩa về nó cần xem là hoạt động mê tín. Chúng và các hoạt động tương tự cần được ngăn chặn kịp thời, cương quyết, khôn khéo và lâu dài.
Khó ứng phó hơn là các hành vi mê tín mới. Tại phương Tây chúng nổi lên dưới cái tên Tân Kỷ nguyên (New Age). Trào lưu này cho rằng, dựa trên các lý thuyết mới như cơ học lượng tử, khoa học (tự nhiên) đã có thêm tính chủ quan, bên cạnh tính khách quan vốn có. Đã là chủ quan thì không thể bỏ qua các yếu tố thuộc về tinh thần hay “tâm linh” được. Tiến thêm một bước (không hợp lý, theo cá nhân người viết), trào lưu này làm sống lại các chủ đề cũ như xuất hồn, đầu thai và luân hồi, tiên tri, giao tiếp với người chết… với nhiều cơ sở nghiên cứu, thực hành và giảng dạy được thành lập, chủ yếu dựa trên tài trợ tư nhân. Như đã trình bày, đó là những hoạt động thiếu cơ sở lý luận chặt chẽ, không vượt qua được các cuộc kiểm chứng nên đều không đáng tin cậy.
Cuối cùng là một số hành vi chưa hẳn là mê tín nhưng cũng cần được lưu tâm đúng mức. Đó là việc ca ngợi và vận dụng quá mức một số quan niệm và kinh nghiệm người xưa. Với cái nhìn khá tinh nhạy, người xưa đã quan sát, chiêm nghiệm và hệ thống hoá một số quan niệm, kiến thức và thực hành trong nhiều lĩnh vực, như y thuật, thuật phong thuỷ, tử vi, kinh Dịch… Tuy nhiên do hạn chế trong hiểu biết về cấu trúc và hành vi của con người và thế giới, nên các hệ thống đó chứa đựng nhiều quan niệm và hành động sai lầm. Với trình độ ngày nay, không khó để chỉ ra đúng sai, hay dở của các hệ thống đó. Một quan điểm đúng đắn trong việc gìn giữ bản sắc là gạn đục khơi trong, loại bỏ các yếu tố sai lầm, giữ lại các kinh nghiệm đúng để ứng dụng vào cuộc sống. Chẳng hạn quan niệm địa linh nhân kiệt. Người xưa cho rằng do khí thiêng sông núi hay mạch đất mà một địa phương có thể sinh nhiều hào kiệt . Vì thế mà có các quan niệm và hành vi sai lầm như “mả táng hàm Rồng” hay trấn yểm. Ngày nay ta biết rằng, chính con người (với mọi sắc thái sinh học và văn hoá) mới là yếu tố tạo nên hay tô điểm thêm cho một truyền thống văn hoá. Nếu không sẽ không hiểu tại sao các nhà Cần Vương thất bại mà Cách mạng tháng Tám lại thành công. Một ví dụ khác là nhà ở ngã ba bị đường đâm thẳng vào thì không tốt. Kết luận có thể giống nhau, nhưng khoa học giải thích bằng các lí do như dễ bị xe đâm trong các vụ tai nạn hay ảnh hưởng của sự căng thẳng thần kinh khi sống trong căn nhà đó, chứ không phải bằng các quan niệm siêu hình của người xưa. Quan niệm xung khắc tuổi cũng vậy. Khi cả hai người cùng tin tuổi họ xung khắc thì họ sẽ xét nét nhau từng tí một và cuối cùng thành xung khắc thật; trong khi nếu cùng tin hợp tuổi thì sẽ chín bỏ làm mười và cố gắng hợp tác tối đa, kết quả là hợp thật. Như vậy chính sức khoẻ thể chất và tâm thần, chính trí tuệ, cảm xúc, niềm tin và các giá trị tinh thần, cũng như môi trường sống và làm việc có văn hoá, chứ không phải ngày tháng năm sinh hay nơi sinh, mới là yếu tố quyết định chúng ta là ai, chúng ta sống và theo đuổi các giá trị như thế nào. Thiên thần hay ác quỉ nằm trong chính chúng ta, chứ không phải ở con sông hay ngọn núi.
Để kết thúc, xin nhấn mạnh rằng, niềm tin vào sự huyền bí là nhu cầu có thật của con người, và theo các nhà khoa học, nó lớn hơn mọi chứng cớ phản bác. Vì vậy chúng ta cần lựa chọn đúng đắn giữa các hoạt động tín ngưỡng và các hành vi mê tín, cho dù trong nhiều trường hợp, ranh giới giữa chúng thật khó phân định. Với lập trường duy vật và cách nhìn biện chứng, với việc ứng dụng linh hoạt các thành tựu khoa học hiện đại, chúng ta có thể gạn đục khơi trong, góp phần gìn giữ những truyền thống văn hoá quí báu của dân tộc, bên cạnh việc kiên trì loại trừ các hành vi mê tín dị đoan.
Đỗ Kiên Cường
https://mail.yahoo.com/d/folders/1/messages/AC8Dbqxxe-3jXiU8tAE4gExeqgI?.intl=sg&.lang=en-SG&.partner=none&.src=fp
—————————-
Sống Ẩn Dật
Sống Ẩn Dật
Con người càng lớn tuổi càng bớt tự tin ở khả năng thể chất lẫn tinh thần của chính mình và trở nên hay lo sợ đủ thứ. Tôi nói tôi đó các bạn à.
Do tiến trình lão hóa tự nhiên làm cho mọi động tác và phản ứng không còn nhanh nhẹn, người già càng thận trọng từ chuyện đơn giản như đi đứng cho đến những quyết định quan trọng. Họ lo sợ gặp phải những bất trắc rủi ro. Tôi yếu hai chân nên càng phải thận trọng hơn.
Để tránh rủi ro, người càng già càng ít đi ra ngoài, tránh đi du lịch xa, hoặc không thích đến những nơi có đám đông, những chốn hội hè ngoài trời. Nếu bảo là họ sợ chốn đông người cũng đúng vì những chuyện lộn xộn thường xảy ra ở chốn đông người: cãi lộn, gây gỗ, đâm chém, bắn giết, đủ thứ tai nạn xảy ra. Cho dù bạn là người vô can nhưng có khi cũng bị vạ lây, một thành phần mà các bản tin tức thời sự gọi là “nạn nhân vô tội”. Người già cảm thấy an tâm hơn khi ở nhà, mặc dù có khi họ chỉ sống một mình. Nhưng như vậy không hẳn là họ cô đơn. Họ chỉ muốn sống ẩn dật.
Sống trong một không gian của riêng mình cũng có nhiều cái lợi. Dành thời gian yên tĩnh một mình không bị ai quấy rầy cho phép bạn thư giãn, chiêm nghiệm bản thân và khởi động lại bộ não. Thời gian để suy nghĩ cho phép bạn suy nghĩ hiệu quả hơn các vấn đề riêng tư, tìm giải pháp mà trước đó bạn chưa có điều kiện để làm. Đối với một số người, điều đó chỉ đơn giản là bớt đi những giao tiếp xã hội, đồng thời họ trân quý và vui hưởng thú được ở một mình để theo đuổi những công việc họ thích.
Nếu bạn là người sống về nội tâm nhiều hơn thì như vậy lại càng tốt. Sống một cuộc sống ẩn dật, bạn dễ tập trung vào công việc sáng tạo. Ví dụ như nữ thi sĩ Emily Dickinson (1830-1886) nổi tiếng trong văn học Hoa Kỳ. Bà là một trong các khuôn mặt ẩn dật nhất trong văn học Mỹ. Hầu như bà sống suốt cuộc đời 56 năm của bà nơi quê nhà Amherst, Massachusetts, trừ một lần đi Philadelphia, một lần đi Washington D.C., và vài lần đi Boston vì từ Amherst đi Boston gần hơn nhiều. Đến năm 40 tuổi, bà không bao giờ ra khỏi khu đất sở hữu của gia đình bà nữa, có khi ở miết trong phòng trên lầu, cho đến khi qua đời.
Emily Dickinson còn được người đời xem là một ẩn sĩ huyền thoại vì bà tự cô lập và giấu kín bí mật cá nhân trong nửa sau của cuộc đời. Trong hơn hai ngàn bài thơ bà sáng tác, chỉ có 12 bài đăng trên báo mà lại còn không đề tên nữa chứ. Bà sáng tác cả đống thơ xong cất kỹ không cho ai đọc hết; mãi sau khi bà mất rồi, em gái bà lục đồ đạc riêng tư của bà mới thấy. Còn nữa, tình bạn mà bà vui hưởng trong nửa cuộc đời sau phần lớn chỉ qua liên lạc thư từ chứ không gặp mặt.
Có điều bạn hãy nên chắc chắn rằng, ngay cả khi dành nhiều thời gian một mình, bạn phải để ý đến tâm trạng của bạn, xem bạn có dấu hiệu gì bất lợi cho sức khỏe không. Nếu bạn cảm nhận có dấu hiệu của sự buồn chán khi sống ẩn dật thì bạn nên điều chỉnh lối sống ngay. Nếu cần, bạn nên tìm kiếm sự giúp đỡ của người thân hay bác sĩ. Sống ẩn dật không có nghĩa là chán đời, phó mặc cái thân tứ đại. Sống ẩn dật mà biết lo cho bản thân đầy đủ mới hay.
Phương pháp sống ẩn dật 1: Dành thời gian một mình
Chuẩn bị tinh thần cho một vài nỗi lo sợ có thể có.
Đối với những người có tính tình năng động, dành hết thời gian sống một mình là đáng sợ. Trong thời đại kỹ thuật số ngày nay, con người kết nối với nhau hơn bao giờ hết. Nếu là một người đã quen với nếp sống bận rộn giao tiếp, trước khi muốn dành thời gian để ẩn dật, bạn cần có một khoảng thời gian điều chỉnh và chuyển tiếp. Nếu không, bạn có thể cảm thấy lo sợ hoặc bối rối khi lần đầu tiên cắt đứt mọi liên lạc.
Cố gắng vượt qua mọi suy nghĩ tiêu cực.
Khi bắt đầu dành nhiều thời gian hơn để sống ẩn dật, bạn nên biết rằng có thể bạn sẽ cảm thấy một số khó chịu lúc đầu. Tuy nhiên, bạn cũng hãy nhớ những lợi ích của sự ẩn dật. Bạn có thể làm việc hiệu quả qua một số vấn đề nhất định hoặc tập trung vào những mưu cầu sáng tạo nhất định nếu bạn dành thời gian một mình. Những lợi ích này có giá trị trong thời gian điều chỉnh ban đầu..
Nếu cảm thấy sợ khái niệm ẩn dật, bạn hãy xem xét gốc rễ của nỗi sợ đó là do đâu. Bạn sợ cô đơn hay có điều gì đó sâu sắc hơn bạn đang gặp phải? Những trải nghiệm tồi tệ trong quá khứ đôi khi khiến cho bạn ngần ngại sống ẩn dật.
Khám phá những sở thích mới.
Bạn hãy sử dụng thời gian ẩn dật một cách khôn ngoan. Thật dễ để rơi vào bẫy cám dỗ của sự lười nếu bạn rảnh rỗi hoàn toàn. Thay vì say sưa xem chương trình TV hoặc ngủ cả ngày, bạn hãy cố gắng tiếp nhận một số sở thích mới. Chọn sở thích nào mà bạn có thể tự làm.
Nếu lúc bắt đầu cuộc sống ẩn dật mà bạn không cảm thấy thoải mái thì đó có thể là do nhàm chán. Nếu bạn không có đủ công chuyện thích thú để lấp đầy thời gian, bạn sẽ cảm thấy rất buồn chán hoặc thất vọng khi một mình. Bạn hãy chọn một sở thích nào đó mà nó giúp bạn chống lại sự nhàm chán. Bạn sẽ có một cái gì đó để làm với thời gian rảnh mới tìm được. Người già dễ rơi vào sự nhàm chán vì không nghĩ ra được chuyện gì hứng thú để làm cho qua thời giờ trống trải. Có lẽ tại thực sự chính họ cũng không biết là họ thích làm gì. Hoặc họ không đủ khả năng và điều kiện để thực hiện điều mà họ thích.
Bạn hãy nhớ rằng, một sở thích không nhất thiết phải tạo thành một niềm đam mê. Nhiều người e ngại để thử các sở thích đơn độc như chụp ảnh, vẽ, hát, đàn hoặc viết. Họ ngại hoặc sợ gì chứ? Sợ mình dở không bằng ai chăng? Tuy nhiên bạn phải nhớ mục đích chính bạn theo đuổi sở thích đó không phải là để nổi danh. Bạn chỉ đang cố gắng khỏa lấp thì giờ rảnh rỗi để giải trí mà thôi.
Sáng tạo.
Nhà bác học Albert Einstein từng nói: “The monotony and solitude of a quiet life stimulates the creative mind.” (Sự đơn điệu và sự cô độc của cuộc sống yên tĩnh kích thích trí óc sáng tạo). Nhiều người chọn cuộc sống ẩn dật để thúc đẩy sự sáng tạo. Không bị những hoạt động giao tiếp xã hội chi phối, bạn có thể tập trung hơn vào công việc sáng tạo của riêng bạn. Nếu bạn là người có tâm hồn nghệ sĩ thích hò hát, chụp ảnh, vẽ vời, viết lách thơ văn hoặc bất kỳ thể loại sáng tạo nào khác, bạn hãy tận dụng thời gian ẩn dật để phát triển tài năng tiềm tàng từ bấy lâu nay mà chưa có cơ hội thực hiện.
Suy nghĩ sâu sắc.
Văn chương, âm nhạc, nghệ thuật đặt ra những câu hỏi khó và thú vị nhất về bản chất của sự hiện hữu và tồn tại của con người. Nếu bạn liên tục bị những điều phiền nhiễu quấy rầy làm mất hết thì giờ quý báu, chắc chắn điều đó sẽ ngăn cản sự sáng tạo, làm sao bạn có thể rảnh trí để suy nghĩ sâu sắc hơn về sự hiện hữu và mục đích của bản thân bạn trên cõi đời này. Nếu bạn ẩn dật, bạn sẽ có nhiều thời gian để suy ngẫm và đi tìm bản ngã.
Nghiên cứu học hỏi.
Biến thời gian sống ẩn dật làm cơ hội học hỏi những điều hữu ích cho nghề nghiệp. Đây là lúc bạn tập trung đầu óc cho một dự án mới, một kế hoạch mới nào đó. Nếu trước đây bạn chưa bao giờ có thì giờ để tra cứu tìm hiểu kỹ một đề tài nào đó, một tác phẩm mà bạn muốn đọc, cuộc sống mới với tư cách là một người ẩn dật cho phép bạn làm như vậy.. May mắn là thời đại Internet cho phép bạn ngồi nhà chứ không nhất thiết phải đến thư viện.
Ngắt kết nối với mạng xã hội.
Nếu bạn muốn được ẩn dật, bạn cần ngắt kết nối với mạng xã hội. Nhiều người nghiện/ghiền mạng xã hội. Họ dành một phần thời lượng đáng kể mỗi ngày chỉ để tán gẫu qua điện thoại, gởi tin nhắn, đối đáp linh tinh, đăng hình ảnh, video lên trang Facebook cá nhân, v.v. Bạn muốn sống ẩn dật hữu ích chớ không muốn phí phạm thì giờ vô ích, vậy thì bạn nên bớt lông nhông trên mạng xã hội. Tắt điện thoại cầm tay, không mở FB để thăm viếng theo dõi sinh hoạt của từng người bạn, đừng tò mò thắc mắc làm gì.
Nhớ lại thời thơ ấu.
Nhớ lại với những kỷ niệm êm đẹp của tuổi thơ là một cách xoa dịu tâm hồn và xả căng thẳng. Khi gặp những khó khăn trong đời sống, khi mất định hướng, khi nhàm chán không biết phải làm gì, bạn hãy cố nhớ lại thời tuổi ngọc bạn đã có những ước mơ gì. Điều đó có thể nhắc nhở bạn phải theo đuổi cho trọn ước mơ, hay ít ra cũng cố gắng tận dụng hết khả năng để sống như một con người tốt. Hãy cố gắng nhớ làm thế nào bạn thư giãn như một đứa trẻ vô tư. Nếu bạn có một tuổi thơ hạnh phúc, bạn có nhiều khả năng tự làm dịu bản thân. Nếu nhu cầu cơ bản của bạn được đáp ứng khi còn nhỏ, bạn xem thế giới là một nơi an toàn, đáng tin cậy.
Dành thời gian ngoài trời.
Nhiều người ẩn dật có niềm yêu thích với thiên nhiên. Thư thả đi bộ một mình trong công viên hòa mình cùng với cảnh vật đất trời bao la sẽ giúp cho bạn cảm thấy cuộc sống ẩn dật quyến rũ hơn và đáng yêu thích hơn. Trong sự yên tĩnh, bạn được sống với những suy nghĩ riêng tư, quan sát vạn vật từ những đám mây lang thang trên bầu trời cho đến con sóc liếng thoắng vừa chạy đến bên chân bạn. Bạn sống ẩn dật nhưng bạn không hề cô đơn. Bạn vẫn kết nối với tạo vật. May mắn là chúng ta sống ở Canada, một đất nước quá dư thừa không gian xanh tươi đẹp mà ngay cả trong những thành phố lớn cũng không thiếu. Theo quy định bắt buộc của chính phủ, tại mỗi khu xóm dân cư đều có khoảng không gian xanh. Dù bạn cư ngụ tại khu phố nào chăng nữa, bạn cũng có thể tiếp cận một công viên có cây có cỏ để bạn đi bộ và hít thở không khí trong lành.
Phương pháp 2: Duy trì bản thân
Tìm công việc bạn có thể làm ở nhà.
Nếu bạn muốn trở thành một người ẩn dật, bạn có thể do dự về việc làm việc bên ngoài nhà của bạn.. Với công nghệ hiện đại, có rất nhiều công việc bạn có thể dễ dàng làm tại nhà nếu bạn có máy tính xách tay và kết nối internet.
Công việc viết lách tự do thường được thực hiện tại nhà.
Cũng có nhiều công việc, như công việc phiên âm, có thể được thực hiện tại nhà. Nhiều công ty thuê các nhà thiết kế các trang web làm việc tại nhà. Ngoài ra, ngày nay rất nhiều công việc thuộc loại giải đáp thắc mắc qua điện thoại cũng được điều hành tại nhà. Bạn có thể là đại diện dịch vụ khách hàng (customer service representative) tại nhà riêng của bạn, thay mặt cho một doanh nghiệp. Chính vì vậy mà có khi bạn gọi cho một công ty ở Canada mà người trả lời điện thoại ở tuốt bên Ấn Độ.
Nếu bạn là một người có khả năng chuyên biệt, bạn hãy nghĩ đến việc nhận làm tại nhà. Điều này không nhất thiết có nghĩa là bắt đầu kinh doanh của riêng bạn. Bạn có thể làm công việc “lãnh mối” (freelance) tại nhà cho khách hàng.
Mua hàng trực tuyến.
Trong thế giới hiện đại, hầu hết mọi thứ bạn cần đều có thể được đặt hàng trực tuyến. Quần áo, sách, thực phẩm và các mặt hàng khác có thể được đặt hàng từ các trang web như Amazon. Có thể bạn hơi bực mình vì phải trả thêm phí giao hàng, nhưng hãy nhớ rằng bạn đang là người ẩn dật, hầu như suốt ngày không ra khỏi nhà. Mặc dù bạn phải tốn thêm một ít tiền cho việc giao hàng, nhưng bạn khỏi chi tiền xăng và nhất là khỏi phải lặn lội ra ngoài trời vào những ngày lạnh căm giá rét.
Gặp trường hợp hoặc vì yếu kém sức khỏe hoặc vì không có phương tiện, hay là bạn muốn trở thành một người ẩn dật thứ thiệt 100%, bạn có thể do dự không muốn rời khỏi nhà, nhất là vào những ngày thời tiết xấu tuyết rơi mù mịt. Nhà hết thức ăn ư? Không sao, bốc điện thoại gọi một cú là có ngay. Thời buổi này bạn đi chợ “online” cũng được vì hầu hết các chuỗi chợ chính đều cung cấp dịch vụ giao hàng tận nhà.
Nếu bạn không muốn đặt hàng trực tuyến, hay là bạn thuộc loại người cổ lổ sĩ không quen với lối sống kỹ thuật cao, bạn có thể đi mua sắm vào giờ các cửa hàng vắng khách. Ví dụ đi mua sắm vào lúc trưa ngày Thứ Tư. Buổi trưa ngày thường vì là giờ thiên hạ đang trong sở làm; Thứ Tư vì đó là ngày cuối của mỗi quảng cáo hàng tuần.
Giữ kết nối với một số người.
Nếu bạn muốn trở thành một người ẩn dật, bạn có thể cảm thấy mình phải cắt đứt mọi liên lạc. Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp bắt buộc. Trên thực tế, một lối sống ẩn dật có thể không bền vững nếu bạn cắt đứt tất cả bạn bè và các mối quan hệ xã hội.
Các mối quan hệ mạnh mẽ (với một vài người bạn thân nhất) có thể giúp bạn cảm thấy an tâm hơn khi dành thời gian sống ẩn dật. Ngay cả khi bạn thích dành thời gian một mình, điều quan trọng là có thể có ai đó để hàn huyên tâm sự nếu cần. Ai cũng cần hỗ trợ trong trường hợp khẩn cấp cả, ít nhất là một người.
Trước khi cam kết một cuộc sống ẩn dật, bạn nên thông báo cho người thân và bạn bè biết ý định của bạn để họ an tâm, khỏi ngạc nhiên hoảng hốt khi bạn đột ngột biến mất trên mạng xã hội. Làm như vậy bạn cũng sẽ cảm thấy an tâm hơn và để khẳng định rằng đó là một sự lựa chọn hơn do tự nguyện chứ không phải là một điều cưỡng bách.
Đối phó với căng thẳng..
Khi bạn chọn sống ẩn dật, bạn phải biết cách kiểm soát sự căng thẳng có thể xảy ra. Những suy nghĩ rắc rối lộn xộn có thể khó tránh hơn nếu bạn có quá nhiều thì giờ ở không. Trong trường hợp bạn cảm thấy có dấu hiệu căng thẳng hoặc suy sụp, bạn hãy gọi cho người hỗ trợ, là người bạn thân thích và tín cẩn nhất, là vị cứu tinh, để thố lộ, để chia sẻ tâm tư, để nhận được sự khích lệ tinh thần và an ủi. Thực hành các hoạt động giảm căng thẳng, như thiền, thở sâu và yoga. Các bài tập hướng dẫn giúp giảm căng thẳng này đều có trên Youtube, rất tiện cho bạn thực hành.
Tập thể dục thường xuyên.
Có một chế độ tập thể dục thường xuyên có thể giúp bạn kiểm soát được cảm xúc tiêu cực. Bạn nên tập thể dục tùy theo tình trạng sức khỏe của bạn chứ không nhất thiết phải theo đúng thời lượng hay các động tác đòi hỏi. Quan trọng là cần tập đều đặn và bạn đừng nên cố gắng tập quá sức.
Phương pháp 3: Tránh mắc phải sai lầm
Hãy xem xét sức khỏe tinh thần của bạn.
Sống ẩn dật có nhiều lợi ích. Tuy nhiên, xu hướng tự cô lập và tránh né những giao tiếp xã hội có thể là triệu chứng của rối loạn sức khỏe tâm thần tiềm ẩn. Cắt đứt sự tiếp xúc giữa bạn với mọi người khác có thể làm tăng cảm giác chán nản, lo lắng và cô lập. Nếu bạn cảm thấy buồn, lo lắng hoặc không vui trong hầu hết thời gian thì đó có thể là một trong những triệu chứng của bệnh. Lối sống ẩn dật chắc là không hợp với bạn rồi đó. Bạn hãy hẹn gặp chuyên gia sức khỏe tâm thần để được chẩn đoán đúng mức. Bạn có thể tìm một nhà trị liệu bằng cách nhờ bác sĩ gia đình của bạn giới thiệu giùm.
Tránh tiêu phí thì giờ vô lối.
Với một số người, khi họ có thừa thì giờ rảnh rỗi thì họ có khuynh hướng phung phí không suy nghĩ, không ý thức. Khi họ bận rộn với các sự kiện xã hội có đông bạn bè thì không sao, nhưng khi họ tập cách sống ẩn dật, do không tự chủ, họ bị lôi cuốn vào các hoạt động vô bổ như xem tivi, xem phim bộ nhiều tập, chơi các trò chơi điện tử và ăn ngủ không điều độ. Điều này làm hỏng mục đích lợi ích tích cực của sự sống ẩn dật. Để tránh tiêu phí thì giờ vô lối, bạn nên lập ra một thời khóa biểu lịch trình làm việc hàng ngày, ấn định rõ ràng giờ nào thức, giờ nào làm việc, giờ nào tập thể dục, giờ nào đi ngủ; và bạn phải áp dụng răm rắp mỗi ngày. Nếu không bỏ được hẳn những cám dỗ, chẳng hạn như chơi game, bạn cố gắng giới hạn và bỏ dần đi.
Nếu việc ăn uống thiếu suy nghĩ là một vấn đề đối với bạn, hãy cố gắng theo dõi lượng calo bạn đang tiêu thụ. Ghi nhật ký những gì bạn đang ăn và khi nào. Nếu bạn thấy mình tăng cân, hãy thử giảm mức tiêu thụ calo.
Tóm lại, không phải ai cũng có thể vui sống ẩn dật. Tùy cá tính, có người sợ sống cô độc lẻ loi, trong khi người khác thì ngại chốn đông người và chỉ muốn sống ẩn dật. Tui!
Phan Hạnh
Cuối năm 2019.
https://freedomofspeechcamp49.blogspot.com/2020/01/song-dat-phan-hanh.html
——————————————-
Có một loại ‘năng lực tinh thần’
quyết định tướng mạo của bạn
Con người có ngoại hình và tâm hồn, vẻ đẹp bên ngoài giống như một đóa hoa nở, có thể trực tiếp nhìn thấy,
còn vẻ đẹp tâm hồn lại giống như hương thơm thoang thoảng, không có cách nào nhìn thấy được.
Vẻ đẹp tâm hồn cần được tích lũy, thông qua việc tu dưỡng có thể hình thành.
Nhan sắc có thể trang điểm xinh đẹp, nhưng không thể che đậy được bản sắc chân chính;
khí chất có thể được bồi đắp thành, nhưng không thể thoát khỏi liên quan đến bản tính.
Vẻ đẹp tâm hồn là một loại năng lực không thể nhìn thấy được nhưng năng lực này có thể giúp chúng ta có được sức cuốn hút tự nhiên bởi tâm tướng và hình tướng của bạn.
- Biết cách nói chuyện cũng là một loại học vấn
Nói chuyện có giới hạn, thích hợp với hoàn cảnh là một loại giáo dưỡng
“Ngôn nhi đương, tri dã mặc, nhi đương, diệc tri dã”.
Dịch nghĩa: Ngôn ngữ có thể bộc lộ cá tính của một con người, biết cách nói chuyện là một loại trí tuệ, mà đôi khi trầm mặc cũng là trí tuệ.
Biết lúc nào nên nói, nói những lời gì, không nên nói năng hồ đồ, đều là các kỹ năng mềm của con người.
Tử Cầm hỏi Mặc Tử: “Nói nhiều có tốt không?”
Mặc Tử trả lời rằng: “Con ruồi, Con ếch bất kể đêm ngày đều không ngừng kêu, kêu đến mức khô rách cả cổ họng, nhưng không có một ai đi nghe âm thanh của chúng. Nhưng tiếng gà trống gáy vào buổi sáng sớm lại khiến cho mọi người đều tỉnh giấc. Nói nhiều có ích lợi gì chứ? Quan trọng là nói đúng thời điểm nên nói”.
Chúng ta thường đánh giá một người có EQ (trí thông minh cảm xúc) cao thì rất biết nói chuyện, thực chất những người như vậy biết được lúc nào nên nói gì, không làm khó người khác, đồng thời thể hiện được sự hào phóng của bản thân.
Bạn càng biết cách nói chuyện, thì càng khiến người khác vui vẻ, khiến người khác thích bạn. Khi người khác càng thích bạn thì bạn sẽ nhận được càng nhiều sự giúp đỡ, bạn sẽ thấy vui vẻ.
Cuộc sống là do mỗi một lời nói, mỗi một hành động của bạn tạo thành, bạn nói chuyện như thế nào, quyết định bạn là ai, thậm chí còn quyết định cả việc bạn sống có tốt hay không.
Họa hay phúc đều từ miệng mà ra, chúng ta nên cẩn thận từng lời nói. Quan tâm đến cảm nhận của người khác mới thật sự là hành động của người trí tuệ.
- Từ ngoại hình có thể đánh giá một con người
Từng có một bài đăng như thế này:
“Tính cách được viết bên môi, hạnh phúc lộ ra ở góc mắt.
Tư thế đứng nhìn ra được khí độ tài hoa, cách bước đi thể hiện khả năng tự nhận thức.
Biểu lộ cử chỉ thể hiện chuyện gần đây, lông mày cho thấy những năm tháng trong quá khứ.
Quần áo thể hiện khiếu thẩm mỹ, kiểu tóc cho thấy cá tính. Nghề nghiệp thì xem tay, tu dưỡng thì xem chân.”
Một loạt các quan điểm có vẻ hơi mang tính tuyệt đối, nhưng nó cũng khá hợp lý.
Đến một độ tuổi nhất định, hình tượng của bạn sẽ thể hiện ra con đường mà bạn đã đi qua, sách bạn từng đọc, người bạn từng yêu, chuyện bạn từng gặp phải, nước mắt từng rơi và mồ hôi từng đổ.
Trên thế giới này, luôn có những người xinh đẹp, và những người ngày càng xinh đẹp, tại sao đó không thể là bạn?
Xinh đẹp không chỉ là nét đẹp mang dáng vẻ bên ngoài, mà nó là những cử chỉ đoan trang, đối với người khiêm nhường, nói năng nho nhã… Tất cả sự kinh diễm đều được bồi dưỡng trong quá trình lâu dài.
Rất lâu về trước, có một người thợ thủ công tay nghề cao, nhiều người đến mua tác phẩm điêu khắc của ông. Nhưng ông và người khác không giống nhau, ông thích điêu khắc yêu ma quỷ quái. Một ngày nọ khi ông soi gương phát hiện ra bản thân rất xấu xí, không phải ngũ quan thay đổi, mà là nhìn tổng thể toàn diện rất hung ác, cổ quái.
Sau đó, ông đến một ngôi chùa tìm phương trượng xin được giúp đỡ, phương trượng nói: “Ta có thể giúp thí chủ trị liệu, nhưng trước tiên thí chủ phải giúp chùa điêu khắc một trăm pho tượng Quan Âm”.
Người thợ lập tức không ngừng nghiên cứu quan sát thần tình, đức tính, và biểu tình của Quan Âm, có lúc còn quên cả bản thân mà nhập vào thế giới cực lạc.
Nửa năm sau, sau khi ông điêu khắc ra một pho tượng Quan Âm toát ra vẻ từ bi, lương thiện, khoan dung, ông vội vã đi tìm phương trượng nói: “Xin ngài giúp tôi trị liệu”.
Phương trượng không nói gì chỉ lấy ra một chiếc gương, cười hiền từ: “Bệnh của thí chủ đã được trị khỏi rồi”.
Lúc đó người thợ mới phát hiện tướng mạo của bản thân trở nên đầy chính khí, đoan trang.
Nếu một người tràn đầy nhiệt huyết, luôn mang theo nụ cười trên môi, đến khi già những nếp nhăn cũng trở nên hài hòa và xinh đẹp.
Đây chính là “Tướng do tâm sinh”.
Đến 40 tuổi, bạn phải có lời nói, hành động, tinh thần phù hợp với tuổi tác, thân phận và địa vị của bản thân.
Nhà văn học Sōichi Ōya người Nhật từng nói rằng: “Gương mặt của một người chính là một bộ hồ sơ”.
Tố chất và tu dưỡng từ nội tâm sẽ quyết định tướng mạo bên ngoài của bạn, câu nói này hoàn toàn chính xác.
Những lời nói, hành động, tri thức kinh nghiệm nửa đời trước của bạn vô hình trung thay đổi tướng mạo nửa đời sau của bạn.
- Người lương thiện căn bản sẽ không bị thiệt thòi
Trong “Lục Tổ Đàn Kinh” có ghi chép: “Tất cả phúc điền đều không thể rời khỏi tâm địa”. Nếu chúng ta gieo một hạt giống lương thiện xuống mảnh đất tâm hồn thì nhất định có một ngày nó sẽ khai hoa kết quả.
Tăng Tử nói: “Một người lương thiện cho dù phúc chưa tới thì họa cũng ở xa”.
Trong một ngôi làng hẻo lánh, thức ăn trong căng tin rất đạm bạc, không phải cải trắng, củ cải thì chính là củ cải, cải trắng. Thân thể của cô giáo yếu đuối nên cô ấy thường đến ngôi làng bên cạnh trường mua trứng gà.
Người bán trứng là một bà lão tuổi đã cao, cô giáo này bèn quyết định trả năm hào tiền cho một cái trứng gà, thật ra ở quê nhà của cô ấy một cái trứng gà chỉ có giá bốn hào năm phân. Cô ấy đã âm thầm nâng cao giá trứng. Nguyên nhân rất đơn giản, cô ấy cảm thấy bà lão đáng thương, không có con cái gì, sống dựa vào mấy con gà, vì vậy mỗi một trứng gà cô ấy đều thêm lên năm phân tiền. Hành động này là muốn giúp đỡ bà lão đáng thương.
Tuy nhiên, bà lão cũng không có ý kiến, chuyện mua bán cứ quyết định như vậy. Qua một khoảng thời gian, cô giáo thấy bà lão vẫn đáng thương, cho nên nâng cao giá trứng thêm năm phân, một cái trứng gà giá năm hào năm phân. Lúc này bà lão mới lên tiếng nhất quyết không chịu nâng cao giá trứng nữa. Nhưng cô giáo vẫn một mực đơn phương nâng cao, không lâu sau đó bà lão cuối cùng cũng chấp nhận.
Một ngày nọ, cô giáo vẫn như thường lệ đến mua trứng, vô tình nhìn thấy một nhà đại lý trứng đang thương lượng giá cả với bà lão, muốn dùng sáu hào tiền một quả trứng để mua toàn bộ giỏ trứng, nhưng bà lão không đồng ý.
Người đến thu mua nói: giá tiền này đã đủ cao rồi, giá trứng trong núi đều như vậy.
Bà lão trả lời rằng vấn đề không phải giá cả, mà là do số trứng này cần phải bán cho cô giáo yếu đuối kia. Người ta từ xa đến dạy học, lại ốm yếu như vậy, bà lão mong rằng cô ấy có thể mập lên một chút, đám trẻ trong làng đều rất cần cô ấy.
Lúc ấy cô giáo hoàn toàn ngơ ngác, thì ra cô ấy mới là người được giúp đỡ, và người giúp đỡ người khác lại chính là bà lão kia. Vậy mới nói, phàm là những gì bạn làm cho người khác thì cũng chính là đang làm cho bản thân mình. Vì vậy những gì bạn muốn có được, trước tiên nhất định phải để người khác có được.
Vì muốn giúp bà lão đáng thương mà cô gái đã nâng giá trứng lên, nhưng đã bị bà từ chối.
Cuộc sống là một tiếng vang. Khi bạn đem lòng tốt cho người khác, cuối cùng cũng sẽ có một ngày bạn thu hoạch lại được thiện chí từ những người khác. Cho dù bạn đối tốt với ai đi nữa, thì cuối cùng vẫn chính là đối tốt với bản thân.
Bảo trì sự lương thiện của mình, chỉ cần tự vấn lương tâm, không cần để ý đến được hay mất, con đường thơm ngát hương hoa đã ở ngay phía sau bạn.
Bên cạnh bạn có người như vậy không: ngoại hình của họ có lẽ không đẹp mắt, cũng không có tài hoa gì, tuy nhiên dường như lại có một loại mê lực hấp dẫn người khác. Khiến cho bạn muốn đến gần, buông bỏ đề phòng, có thể nói ra những bí mật trong lòng với họ?
Quân tử như ngọc, người khiến người khác thoải mái cũng giống như một khối ngọc tinh mỹ. Ở cùng một người như vậy, giống như bạn đang nghe một ca khúc ấm áp, thưởng thức một ly trà nồng đậm, xem một đóa hoa nở tươi tốt. Khiến cho ánh sáng mặt trời trở thành một dòng nước thanh mát êm dịu.
Audrey Hepburn nổi tiếng khắp thế giới không chỉ dựa vào ngoại hình xinh đẹp, với khuôn mặt sáng sủa của cô ấy, bởi vì trên đời này có rất nhiều mỹ nhân. Cũng không phải do học lực của cô ấy, bởi vì người có học lực cao hơn cô ấy còn vô số.
Mà thứ khiến cho người ta nhớ rõ cô ấy chính là cô ấy đã dùng cả đời mình để giải thích tường tận cái gì là “Tâm sinh tướng”. Trong di thư của mình cô ấy đã viết như thế này:
“Nếu muốn có một đôi môi đẹp thì phải nói những lời tốt đẹp;
Nếu muốn có một đôi mắt đáng yêu, thì phải thấy lợi ích của người khác;
Nếu muốn có dáng người mảnh mai, hãy chia sẻ thức ăn của bạn với những người đói;
Nếu muốn có một mái tóc mượt mà thì hãy để những ngón tay của trẻ em xuyên qua nó hằng ngày;
Nếu bạn muốn có một cử chỉ thanh lịch, hãy nhớ rằng không chỉ có một mình bạn đi lại trên đường.
Đây là cách giải thích tốt nhất về câu “Tâm sinh tướng”.
Bản chất chân chính của một người không phải là ngoại hình, không phải là tiền bạc, không phải là trình độ học vấn, mà đó chính là tâm hồn, điều không bao giờ biến mất theo năm tháng. Để tâm hồn luôn thiện lương chúng ta phải luôn tu dưỡng vì đó chính là cánh cửa liên thông với đất trời và con người cũng như vạn sự vạn vật trong vũ trụ.
Khải Phong biên dịch
Nguồn bài:
https://mail.yahoo.com/d/folders/1/messages/AAeT544QMfr5Xdhj-gduWHco7kA?.src=fp
——————————————
10 phát hiện đáng chú ý nhất
về người khổng lồ ở Bắc Mỹ

















Phan Anh lược dịch
——————————-
Bắt vẹm đen
kiếm tiền triệu mỗi ngày ở ngã ba sông Hàn
Hàng chục ghe, thuyền của người dân ở các huyện Đại Lộc, Thăng Bình, Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam đỗ về ngã ba sông Hàn (Đà Nẵng) để lặn bắt vẹm đen. Vài tháng trở lại đây, nhiều thương lái trong và ngoài tỉnh lùng mua vẹm với giá từ 8.000 đồng/kg.
Đây là nơi có nhiều vẹm đen nhất ở dòng sông này nên thu hút đông người đổ về đánh bắt. Trước khi lặn, người thợ đeo một sợi dây xích to để dễ chìm xuống độ sâu.
Ngư dân thường dùng một chiếc ghe nhỏ để ra giữa sông bắt vẹm. Chiếc ghe này có 4 thành viên, đều là người dân tộc Cơ Tu. Bình quân mỗi hộ dân kiếm được 10 bao vẹm/ngày (mỗi bao 50 kg), thu nhập từ 1-2 triệu đồng/người.
Theo kinh nghiệm của ngư dân, chu kỳ sinh trưởng của loài vẹm đen chỉ trong vài tháng. Những người thợ tranh thủ mùa vụ để khai thác. Anh Alang Cương cho biết không phải dân sông nước nhưng làm lâu quen tay và rất khéo léo trong việc đánh bắt vẹm.
Trong ảnh là vợ chồng anh Trần Xuân Chương (quê ở huyện Đại Lộc, Quảng Nam). Anh chị tới Đà Nẵng từ tháng 2, thuê nhà trọ ở qua đêm để theo đuổi công việc này mưu sinh.
Các ngư dân đánh bắt vẹm tù đây cũng trở thành những thợ lặn lành nghề. Họ dùng bình khí oxy để thở và có thể ở dưới nước vài giờ đồng hồ.
Trong khi chờ thành viên khác lặn ngụp phía dưới bắt vẹm, người ngồi trên ghe tranh thủ ăn trưa.
Tại đây có cả những chiếc thuyền lớn tới đánh bắt vẹm đen. Sau mỗi ngày, họ chở về bến đầy ắp những thùng “sản phẩm” vừa thu lượm được.
Vẹm sống trong bùn nước lợ nên khi cho vào bao người ta phải đánh sạch bùn ngay tại chỗ. Vẹm sẽ được được thu mua để làm thức ăn cho các bè nuôi tôm hùm hoặc sản xuất thức ăn gia súc.
Vẹm đen (gọi theo người dân địa phương) là động vật thân mềm hai mảnh vỏ. Vẹm đen to bằng ngón tay trỏ, vỏ màu đen, bám thành chùm trên vách đá, cọc tre vùng nước ngọt và lợ quanh vùng cửa sông. Gần đây loài này xuất hiện nhiều, được thương lái lùng mua giá khá cao.
Kết thúc buổi tìm bắt vẹm, người thợ rửa mặt ngay tại khu vực mình vừa lặn. Ở nhiều địa phương phía nam, các vùng vịnh, cửa sông nước lợ ngư dân thường cắm cọc tre để ươm vẹm, vừa làm sạch môi trường nước, vừa làm thức ăn phục vụ nuôi trồng thủy sản tại chỗ. Việc sinh sôi cũng như thương lái thu mua loài vẹm đen ở địa phương mở ra triển vọng mới cho ngư dân.
————————————————-
Khi vừa chuyển sang môi trường mới, chị em công sở không khỏi gặp phải những khó khăn, bỡ ngỡ bước đầu. Tuy nhiên, dù thế nào cũng đừng vướng phải những sai lầm phổ biến này.
Dù muốn, dù không thì làm việc nhóm và tương tác với đám đông là kỹ năng vô cùng cần thiết và rất đỗi quan trọng, buộc dân văn phòng phải thuần thục. Cho nên, mối quan hệ với đồng nghiệp là thứ mà dân công sở phải tâm niệm và luôn chú ý để không gây ảnh hưởng đến công việc của bản thân.

Nghiên cứu chỉ ra rằng, nếu chúng ta có mối quan hệ gắn bó với đồng nghiệp, năng suất làm việc sẽ vì đó mà tăng lên đáng kể. Nhưng thật không may, khi bắt đầu ở nơi một làm việc mới, chúng ta thường mắc phải một số sai lầm, gây nên những tác động xấu đến mối quan hệ với những người xung quanh.
1. Không nhớ tên đồng nghiệp
Bí quyết để tạo được ấn tượng trong giao tiếp chính là nhớ được tên của người khác càng nhanh càng tốt. Việc nhớ tên người khác thể hiện sự tập trung của chúng ta vào câu chuyện cũng như sự tôn trọng dành cho đối phương.
Nhà thuyết trình nổi tiếng và tác giả cuốn sách “How to Win Friends and Influence People” – Dale Carnegie gợi ý rằng, hãy gọi tên đối phương ngay từ giây phút đầu tiên gặp mặt và lập đi lập lại cái tên ấy trong suốt quá trình giao tiếp, chúng ta sẽ có thể dễ dàng khắc ghi tên của người đối diện vào đầu.
Do đó, trong lần gặp mặt tới, hãy chủ động gọi tên đồng nghiệp để khiến đối phương cảm thấy dễ chịu, có mối liên hệ thân thiện hơn. Đó cũng là tiền đề để xây dựng những mối quan hệ tốt ở nơi làm việc.
2. Không bao giờ mời đồng nghiệp ăn uống
Ông bà ta xưa vẫn hay có câu “Miếng trầu là đầu câu chuyện”; môi trường công sở cũng vậy, để bắt đầu một câu chuyện hoặc một chủ đề, chẳng gì phù hợp hơn là một chút quà bánh. Điều này đặc biệt quan trọng hơn khi chúng ta chuyển sang một môi trường làm việc mới.
Đừng ngần ngại chuẩn bị một ít bánh kẹo để có thể đi mời khắp văn phòng và giao lưu, làm quen. Còn nếu trong trường hợp văn phòng quá đông và chúng ta quá ngại để có thể kết nối, hãy cứ để một ít quà bánh và chia nó cho những người ghé ngang bàn làm việc.

3. E ngại khi kết bạn với đồng nghiệp trên mạng xã hội
Có thể không phải là tất cả; tuy nhiên, phần lớn những gì chúng ta có thể tìm hiểu về một người là thông qua mạng xã hội, từ sở thích cho đến tâm tư, tình cảm cũng như suy nghĩ. Do đó, đừng ngần ngại kết bạn với đồng nghiệp trên mạng xã hội rồi bắt chuyện và tìm kiếm điểm chung của cả hai để bắt đầu kết nối.
Khi điểm chung đã có, những vấn đề liên quan đến công việc cũng trở nên dễ dàng để chia sẻ hơn. Điều này sẽ giúp chúng ta lường trước được điều gì nên nói và điều gì không nên nói ở công ty. Chú ý, chúng ta không nên lan truyền những thông tin chưa xác thực nghe được từ người khác nếu không muốn trở thành kẻ đưa chuyện đáng ghét.
4. Cố gắng thể hiện là người quảng giao
Ai cũng muốn nhanh chóng “làm thân” với đồng nghiệp để có thể hoà nhập vào môi trường công sở nhanh nhất có thể. Tuy nhiên, hãy cứ là chính mình, đứng quá vồn vã và hấp tấp. Bởi lẽ, trong vô vàn những kiểu người nơi công sở, bên cạnh những người cởi mở cũng có những con người trầm tĩnh, ít nói và cần không gian riêng.
Đừng cố gắng làm thân với mọi người quá nhanh cũng như đừng chia sẻ quá nhiều thông tin cá nhân. Hãy nhớ rằng, chuyện riêng không nên đem ra bàn luận nơi công sở.

5. Không khen ngợi người khác
Nếu cảm thấy người bạn đồng nghiệp của mình có khả năng gì đó đặc biệt, đừng tiếc lời mà hãy khen ngợi họ thật chân thành và thật sự trung thực. Bởi cái gì xuất phát từ trái tim sẽ đến được với trái tim.
Đôi khi, những hành động dù nhỏ nhưng tinh tế là đủ để đối phương khắc ghi trong suốt một quãng thời gian dài.
6. Không trung lập
Công sở vốn là nơi thị phi và phức tạp, nếu thấy rằng có sự chia phe, nhóm ở nơi làm việc, cách tốt nhất là đừng tham gia vào điều đó. Hãy cố gắng giữ quan điểm trung lập, đối xử lịch sự và đúng mực với tất cả mọi người.
Hãy tránh xa những cuộc trò chuyện tiêu cực về người khác. Về lâu dài, giữ quan điểm trung lập như vậy sẽ giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực, làm việc hiệu quả hơn.

7. Không chú ý đến ngôn ngữ cơ thể của bản thân
Ngôn ngữ cơ thể thực sự rất quan trọng trong giao tiếp. Đó là một cách ngầm gửi tín hiệu đến đối phương khi giao tiếp. Vì vậy, không chú ý điều chỉnh ngôn ngữ cơ thể, chúng có thể khiến đồng nghiệp cảm thấy khó gần và chẳng mặn mà giao tiếp nữa.